Chiều 21/8, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì Công bố các Quyết định của Bộ Chính trị về điều động, phân công cán bộ giữ chức Trưởng ban Kinh tế Trung ương và giữ chức Trưởng ban Dân dân Trung ương.
Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung tiếp Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản
Sáng ngày 05/5, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung đã tiếp và làm việc với ông Kato Katsunobu, Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Kato Katsunobu.
Phát biểu tại buổi tiếp, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung bày tỏ sự vui mừng khi được gặp lại ông Kato Katsunobu tại Hà Nội vào đúng thời điểm hai nước Việt Nam - Nhật Bản kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Bộ trưởng cho biết: Sau hơn hai năm bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, quan hệ lao động giữa Việt Nam – Nhật Bản đang từng bước được kết nối lại và có những kết quả tích cực trong thời gian gần đây.
Liên quan đến việc nghiên cứu, sửa đổi quy định tiếp nhận thực tập sinh, lao động nước ngoài tại Nhật Bản, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung bày tỏ sự tin tưởng, với tinh thần cầu thị và nhận định rõ xu hướng phát triển lĩnh vực nguồn nhân lực trên thế giới, phía Nhật Bản sẽ sửa đổi các quy định pháp luật liên quan, để tạo dựng môi trường làm việc cho người bản địa cũng như người nước ngoài làm việc tại Nhật Bản ngày càng tiến bộ, công bằng và hợp lý. Trong đó, cần thực sự đảm bảo các quyền của người lao động nước ngoài về thu nhập, bảo hiểm, các chế độ phúc lợi; đảm bảo các quyền chuyển đổi công việc một cách hợp lý, hài hòa lợi ích của cả chủ sử dụng và người lao động.
Đối với Chương trình lao động kỹ năng đặc định, mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, song Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có số lượng thực tập sinh và người lao động lớn tại Nhật Bản. Điều này là minh chứng rõ nhất cho sự phù hợp của mối quan hệ lao động giữa Việt Nam và Nhật Bản. Và hy vọng trong thời gian tới, hai bên sẽ tích cực chuẩn bị tốt cho các kỳ thi kĩ năng nghề, ngoại ngữ, dành cho thực tập sinh và người lao động đi làm việc theo chương trình này.
Còn Chương trình đưa ứng viên điều dưỡng, hộ lý Việt Nam đi làm việc tại Nhật Bản theo Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (EPA) được triển khai từ năm 2012. Đến nay, hai bên đã hợp tác tổ chức 11 khóa đào tạo các ứng viên tại Việt Nam, đưa được 1.696 ứng viên điều dưỡng, hộ lý Việt Nam đi làm việc tại Nhật Bản. Các ứng viên Việt Nam sau khi sang thực tập và làm việc tại Nhật Bản được các cơ sở tiếp nhận, viện dưỡng lão Nhật Bản đánh giá cao về chuyên môn, khả năng ngoại ngữ, tính cách, ý thức tích cực trong công việc...
“Được biết, hiện nay Nhật Bản đang rất thiếu lao động làm việc trong môi trường điều dưỡng và hộ lý. Tuy nhiên số lượng ứng viên đăng ký tham gia chương trình liên quan đến nhóm ngành này chưa được cao, do đây là ngành đặc thù mà đòi hỏi người lao động cần có chuyên môn tốt. Do đó, đề nghị phía Nhật Bản cần có các cơ chế đãi ngộ hợp lý, tương xứng hơn để thu hút được nhiều ứng viên Việt Nam tham gia chương trình này” – Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trao đổi.
Về phía Nhật Bản, ông Kato Katsunobu - Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản gửi lời cảm ơn tới Bộ trưởng Đào Ngọc Dung đã dành thời gian tiếp đón đoàn.
Ông Kato Katsunobu cho biết: Hiện nay, Nhật Bản đang triển khai việc nghiên cứu sửa đổi quy định pháp luật hiện hành liên quan đến Chương trình tiếp nhận thực tập sinh, lao động nước ngoài sang Nhật Bản thực tập và làm việc (chương trình khung). Trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi quy định này, hội đồng chuyên gia Nhật Bản đặc biệt chú ý tới mục tiêu chuyển giao kỹ thuật, đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, không chỉ đóng góp nhân lực cho Nhật Bản mà còn cho cả quốc tế.
Đối với vấn đề thay đổi chương trình thực tập sinh kỹ năng và lao động kỹ năng đặc định Bộ trưởng Kato Katsunobu chia sẻ, Nhật Bản đang hướng tới xây dựng một hệ thống mới để “bảo vệ và phát triển” nguồn nhân lực.
“Đây được coi là bước ngoặt mới của Nhật Bản trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài. Sắp tới, chúng tôi sẽ hoàn thiện báo cáo cuối cùng trình Chính phủ Nhật Bản về những thay đổi của chương trình thực tập kỹ năng này’’ - Bộ trưởng Kato Katsunobu nhấn mạnh.
Cuối buổi tiếp, hai Bộ trưởng đã đồng ý với việc phía Bộ LĐTBXH Việt Nam và Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản sẽ thường xuyên trao đổi, chia sẻ các kinh nghiệm trong quá trình hợp tác giữa các bên để cùng nhau giải quyết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực thời gian tới đây./.
Pháp hạ dự báo tăng trưởng trong năm 2024 từ 1,4% xuống 1%.
Trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền hình TF1 của Pháp, Bộ trưởng Tài chính Bruno Le Maire cũng nói rằng chi tiêu nhà nước sẽ bị cắt giảm 10 tỷ euro (10,8 tỷ USD). Cụ thể, chính phủ sẽ không tăng thuế và không cắt giảm các khoản thanh toán an sinh xã hội cho người dân, nhưng tất cả các bộ và cơ quan chính phủ sẽ phải cắt giảm chi tiêu. Ông cho biết sẽ cắt giảm 5 tỷ euro chi phí hoạt động ở tất cả các bộ, ngành và 5 tỷ euro cho các chính sách công.
Bộ trưởng Tài chính Pháp nhận định: “Dự báo tăng trưởng vẫn tích cực nhưng có tính đến bối cảnh địa chính trị mới”. Chính phủ sẽ đảm bảo rằng Pháp vẫn đi đúng hướng để tôn trọng mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách nhà nước năm 2024 xuống 4,4% GDP. “Chúng tôi đang giữ phương án thực hiện ngân sách bổ sung vào mùa hè, tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế và tình hình chính trị”, ông Bruno Le Maire nêu rõ. Pháp đặt mục tiêu cắt giảm dần mức thâm hụt tài chính trong những năm tới cho đến khi giảm xuống dưới mức trần 3% của Liên minh châu Âu (EU) vào năm 2027.
Dự báo mới của Pháp phù hợp với một loạt động thái hạ triển vọng tăng trưởng gần đây của Ủy ban châu Âu (EC), OECD và cơ quan thống kê INSEE của Pháp.
Ngày 15-2, EC đã cắt giảm dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 của Pháp xuống 0,9% từ mức 1,2% được dự báo trong tháng 11 năm ngoái và cắt giảm dự báo cho Đức xuống 0,3% từ 0,8%.
Đầu tháng này, OECD đã cắt giảm dự báo tăng trưởng năm 2024 của Pháp xuống 0,6% từ mức 0,8% trước đó.
Cơ quan thống kê INSEE của Pháp ngày 7-2 dự báo mức tăng trưởng theo quý chỉ là 0,2% trong quý I và quý II.
Nền kinh tế Pháp tăng trưởng 0,9% vào năm 2023, so với 2,5% vào năm 2022 và mức tăng trưởng 6,4% sau đại dịch Covid-19 vào năm 2021.
Quan hệ của ASEAN với các nước lớn và vai trò trong khu vực
“Quy chế đối thoại” – sự sáng tạo của ASEAN
Ngay từ rất sớm, nhận thức rõ tầm quan trọng không thể thiếu của các nước lớn, các đối tác trong và ngoài khu vực, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã có nhiều nỗ lực nhằm quản lý quan hệ với các nước lớn và các đối tác dưới nhiều hình thức khác nhau, đồng thời tìm cách chèo lái quan hệ với các nước lớn đi theo hướng có lợi nhất cho ASEAN và khu vực Đông Nam Á. Để đạt được mục tiêu này, ASEAN đã sáng tạo ra nhiều loại “quy chế đối thoại” để trao cho các nước lớn, các đối tác trong và ngoài khu vực căn cứ vào năng lực, hoàn cảnh của từng đối tác cũng như nhu cầu của ASEAN.
Về bản chất, “quy chế đối thoại” là phương thức xử lý quan hệ với các nước lớn, các đối tácthông qua đối thoại, hợp tác ở các mức độ khác nhau nhằm tăng cường xây dựng lòng tin, tránh hiểu nhầm, thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, thay vì sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Đây là dấu ấn riêng của ASEAN mà không có bất kỳ tổ chức nào trên thế giới có được.
“Quy chế đối thoại” của ASEAN bao gồm nhiều mức độ khác nhaunhư đối tác đối thoại chính thức (dialogue partner), đối tác đối thoại ngành (sectoral partner), đối tác phát triển (development partner), quan sát viên đặc biệt (special observer) và quy chế khách mời (guest status)... Gần đây, ASEAN bổ sung thêm quy chế đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để nâng cấp một số mối quan hệ quan trọng của ASEAN với các nước lớn. Trong đó, quy chế đối tác đối thoại chính thức là quy chế cao nhất, quan trọng nhất, chỉ dành cho các nước phát triển giàu có, làthành viên của OECD, các nước lớn hoặc trung tâm quyền lực thế giới.
Hiện nay, ASEAN có 10 đối tác đối thoại chính thức, trong đó có 8 quốc giavà 2 tổ chức quốc tế, trung tâm kinh tế chính trị thế giới là Liên Hợp Quốc và Liên minh Châu Âu (EU). Trong các đối tác đối thoại, có 6 đối tác được thiết lập từ những năm 1970, bao gồm: Australia (thiết lập năm 1974), New Zealand (1975), Canada, EU, Nhật Bản, Mỹ và Liên Hợp Quốc (1977). Riêng quan hệ đối thoại với Liên Hợp Quốc sau này được thay thế bằng đối tác toàn diện ASEAN – Liên Hợp Quốc. Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, ASEAN lập thêm quan hệ đối thoại với 4 đối tác là Hàn Quốc (1991), Ấn Độ (1995), Trung Quốc và Nga (1996).
Thấp hơn một chút là quy chế đối thoại ngành, tức là chỉ tập trung quan hệ và đối thoại vào một hoặc một vài lĩnh vực mà hai bên cùng có lợi ích chung. Hiện nay, ASEAN có hai đối tác đối thoại ngành là Pakistan và Na Uy.ASEAN cũng trao quy chế Quan sát viên đặc biệt cho Papua New Guinea và đã mời rất nhiều khách mời, chủ yếu là quan chức cấp cao của các nước, các tổ chức quốc tế… tham gia các hoạt động của ASEAN, nhất là các hoạt động cấp cao để tạo dựng uy tín và quảng bá hình ảnh của ASEAN ra bên ngoài.
Bên cạnh đó, ASEAN cũng xây dựng thành công quan hệ hữu nghị và hợp tác cùng có lợi với nhiều tổ chức ở khu vực và trên thế giới. Trong đó, đáng kể nhất là đối tác toàn diện ASEAN – Liên Hợp Quốc được thành lập và nâng cấp năm 1977, Hội đồng hợp tác các nước vùng Vịnh (GCC), Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur), Nhóm Rio và sau này là Cộng đồng các quốc gia Nam Mỹ và Carribe và Liên minh Thái Bình Dương.Tất cả quan hệ của ASEAN với các nước lớn đều được xử lý thông qua 4 cơ chế chính như sau:
Một là, cơ chế ASEAN+1 với 10 đối tác đối thoại chính thức. Đây là cơ chế chính thức lâu đời nhất, đầy đủ nhất, quan trọng và hiệu quả nhất của ASEAN trong việc xử lý quan hệ với từng nước lớn, từng đối tác. Thông qua cơ chế này, các nước ASEAN – một tập hợp của các nước vừa và nhỏ - không chỉ đối thoại một cách bình đẳng, ngang hàng với các nước lớn, mà còn tranh thủ được rất nhiều nguồn lực cho phát triển, trên hầu hết các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, giáo dục, hỗ trợ kỹ thuật, chống khủng bố… Nhờ cơ chế này, ASEAN đã nhận được sự tôn trọng của các nước lớn, và đã không ít lần áp đặt được ý chí của mình lên các nước lớn. Sở dĩ ASEAN có thể thành công như vậy là vì ASEAN đã biết đoàn kết nội khối, tranh thủ được sự nghi kỵ giữa các nước lớn và có khả năng thích ứng linh hoạt, điều hòa lợi ích giữa các bên.
ASEAN đã thiết kế cơ chế ASEAN+1 thành 4 cấp (cấp làm việc, cấp thứ trưởng - SOM, cấp Bộ trưởng và Cấp cao) với vai trò điều phối được luân phiên, chia đều cho các nước thành viên theo thứ tự ABC. 10 nước ASEAN được phân công điều phối quan hệ với 10 đối tác đối thoại và nhiệm kỳ điều phối viên là 2 năm. Thông thường, cơ chế đối thoại ASEAN+1 được tiến hànhhọp ngay sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) để tập trung xử lý quan hệ hợp tác song phương với từng nước lớn, từng đối tác trước khi bước vào họp đa phương tại Diễn đàn An ninh khu vực (ARF).
Tuy nhiên, những năm gần đây, do sự phát triển của ASEAN và do các nước lớn ngày càng gặp nhiều khó khăn, nên xu hướng chung là các nước lớn, các đối tác muốn ASEAN tự lực hơn, bình đẳng hơn và muốn cắt giảm các khoản hỗ trợ phát triển cho ASEAN.
Hai là,ASEAN+3là cơ chế đặc biệt với 3 nước lớn ở Đông Bắc Á. Đây là cơ chế đối thoại và hợp tác giữa ASEAN và 3 nước là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, được thành lập năm 1997 ngay sau khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997 cho thấy mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau sâu rộng giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á và nhu cầu thúc đẩy hợp tác giữa hai khu vực để hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do vậy, cơ chế này thực chất là việc ASEAN tranh thủ sự giúp đỡ của 3 nước Đông Bắc Á để khắc phục hậu quả và những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Thành công nhất của cơ chế này là Sáng kiến Chiang Mai, tạo lập một Quỹ tài chính chung, với sự đóng góp tài chính chủ yếu của 3 đối tác Đông Bắc Á, đặc biệt là Hàn Quốc, để trợ giúp cho các nước Đông Nam Á trong cải cách tài chính, ngân hàng và phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.
Ba là, cơ chế cấp cao Đông Á (EAS), về bản chấtcũng là một cơ chế ASEAN+, nhưng không phải là với 3 hay một nước lớn, mà là cả 8 nước lớn. Đây là cơ chế được thành lập từ năm 2005, mục đích ban đầu là xây dựng một diễn đàn đối thoại cấp cao nhất giữa ASEAN và tất cả các nước lớn trên thế giới và khu vực về các vấn đề chiến lược với ASEAN nắm giữ vai trò thiết lập chương trình nghị sự, tổ chức các cuộc họp và kéo tất cả các đối tác chủ chốt nhất vào khu vực để cùng bàn bạc, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, đến nay EAS mới chỉ là diễn đàn bàn về các vấn đề kinh tế, phát triển là chính, chưa thực sự tập trung vào các vấn đề an ninh, chiến lược và chưa đi đúng hướng mà ASEAN mong muốn. Sự can dự sâu rộng và vai trò của các nước lớn đã phần nào ảnh hưởng tới những kết quả hợp tác, đối thoại mà ASEAN mong muốn. EAS cũng chưa có sự kết nối rõ ràng, hiệu quả với các cơ chế khác và chưa có các cơ chế thực thi các quyết sách của lãnh đạo cấp cao.
Bốn là,ASEAN cũng thành lập các Ủy ban ASEAN tại thủ đô của các nước lớn trên thế giới nhằm phối hợp hành động và xử lý quan hệ với các nước lớn.
Nói tóm lại, quan hệ của ASEAN với các nước lớn, các đối táccó ý nghĩa rất quan trọng với hòa bình, ổn định và sự phát triển thịnh vượng của khu vực. ASEAN có cách tiếp cận và xử lý quan hệ rất độc đáo, sáng tạo với các nước lớn với nhiều cơ chế, diễn đàn khác nhau. Trong 50 năm qua, ASEAN đã xử lý rất thành công quan hệ với các nước lớn.
Vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề quốc tế
Từ một cơ cấu đối thoại, hợp tác lỏng lẻo,mang tính chất tiểu khu vực ở Đông Nam Á là chính, từ sau chiến tranh Lạnh đến nay,ASEAN đã dần trở thành hạt nhân và đóng vai trò “trung tâm” trong các cơ chế, cấu trúc an ninh, hợp tác khu vực ở châu Á – Thái Bình Dương nhằm giải quyết các vấn đề, các thách thức đặt ra ở cấp độ khu vực và phần nào đó là cả các thách thức an ninh phi truyền thống toàn cầu.
ASEAN vừa tăng cường đối thoại, hợp tác với nhau, vừa tìm cách tạo ra các khuôn khổ thích hợp để can dự với các đối tác bên ngoài để cùng nhau bàn bạc xử lý các vấn đề an ninh, hợp tác và phát triển có thể ảnh hưởng tới khu vực.
ASEAN đã xây dựng thành công là Diễn đàn An ninh khu vực (ARF), góp phần quan trọng khẳng định vai trò của ASEAN trong việc quản lý xung đột, xử lý các vấn đề an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Được thành lập từ năm 1994 để các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN cùng gặp gỡ, trao đổi về các vấn đề an ninh khu vực với các Ngoại trưởng của các nước lớn. ARF hình thành dựa trên cơ chế PMC, vốn là Cuộc họp cấp Bộ trưởng mở rộng sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM). ARF ra đời đã đáp ứng được nhu cầu rất lớn của các nước nhằm đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, thiên tai… ARF cũng cho phép các nước lớn có tiếng nói, bày tỏ được quan điểm, lập trường và phát huy được vai trò nhất định trong các vấn đề khu vực.Nhờ đó, ASEAN đã quy tụ được sự quan tâm, can dự của tất cả các nước lớn trong và ngoài khu vực, cũng như của nhiều tổ chức khu vực, toàn cầu và trở thành đối tác không thể thiếu của rất nhiều đối tác trên thế giới.
Cơ chế thứ hai không kém phần quan trọng là Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Trên cơ sở cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM), Việt Nam đã đưa ra ý tưởng hình thành ADMM+ khi chúng ta đảm nhận vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2010. Do sự phức tạp của các vấn đề an ninh khu vực, và nhận thấy những hạn chế của cơ chế ARF, Việt Nam đã cùng các nước xây dựng thành công ADMM+ nhằm nâng cao vai trò của ASEAN và kéo Bộ trưởng Quốc phòng các nước trong và ngoài khu vực tới Đông Nam Á để bàn về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Đây là cơ chế an ninh – quốc phòng và là sự bổ sung hoàn hảo cho ARF (cơ chế an ninh – chính trị) để định hình 2 cơ chế đa phương chính ở khu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm. Về bản chất, cả ARF và ADMM+ đều là cơ chế ASEAN+ cấp Bộ trưởng và là diễn đàn để ASEAN cùng các nước lớn, các đối tác bên ngoài ngồi lại với nhau để xây dựng lòng tin, tăng cường đối thoại và quản lý xung đột.
Sau khi Hiến chương ASEAN ra đời và bắt đầu có hiệu lực, cơ cấu tổ chức của ASEAN trở nên chặt chẽ hơn. ASEAN tiếp tục thu hút được sự quan tâm, ủng hộ của các nước. Đến nay, đã có 86 quốc gia ngoài ASEAN cử Đại sứ tại ASEAN; đặc biệt là các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, EU và Nga. Từ cuối thập niên đầu thế kỷ XXI, ASEAN đã cải thiện nhanh chóng và mở rộng quan hệ đối thoại chiến lược với Mỹ và chú trọng làm sâu sắc quan hệ hơn với Trung Quốc, nhất là quan hệ kinh tế. Các đối tác của ASEAN, đặc biệt là các nước lớn đều mong muốn ASEAN phát huy vai trò trung tâm trong các cơ chế hợp tác ở khu vực.
Với tầm nhìn vượt qua những lợi ích riêng của mình, ASEAN đã và đang thể hiện tiếng nói ngày càng mạnh mẽ, có trách nhiệm đối với những mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, đặc biệt trong các lĩnh vực hợp tác, phát triển bền vững, chống khủng bố, ứng phó biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai, bệnh dịch... Việc gắn kết triển khai Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 với Chương trình nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững cho thấy tuy chỉ là một Cộng đồng khu vực, nhưng ASEAN đã và sẽ tiếp tục khẳng định tư duy và tầm nhìn chiến lược mang tính toàn cầu.
Nhờ những thành tựu kể trên, ASEAN đã nâng cao được vai trò của Hiệp hội trong quan hệ với các đối tác, giữ vững vai trò chủ đạo của ASEAN trong các cấu trúc khu vực đang định hình, được các nước đối tác cam kết hỗ trợ thúc đẩy việc triển khai đồng bộ và hiệu quả các kế hoạch, chương trình hợp tác trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. ASEAN còn phát huy vai trò và tiếng nói quan trọng trong việc xác định các chương trình nghị sự, định hướng phát triển của tiến trình tại các diễn đàn, thể chế do ASEAN dẫn dắt.
Cải cách và vận động không ngừng hướng tới tương lai
Hiện nay ASEAN đang xây dựng các Cộng đồng ASEAN và đang hướng tới trở thành một cộng đồng hướng tới người dân, một khu vực phát triển năng động nhất thế giới. ASEAN đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 khu vực châu Á, với dân số hơn 630 triệu người và tổng GDP đạt 2.400 tỷ USD, tổng thương mại hàng năm trên 1.000 tỷ USD và có Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với tất cả các đối tác lớn của khu vực. Đầu năm 2016, 10 nền kinh tế của ASEAN tập hợp thành nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới. Đến đầu năm 2017, vị trí này đã được cải thiện lên hàng thứ 6 và dự báo sẽ lên hàng thứ 5 vào năm 2020, thậm chí có thể lên hàng thứ 4 vào năm 2025.
Tuy nhiên, bối cảnh địa kinh tế, địa chiến lược của Đông Nam Á nói riêng và khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung đang thay đổi rất sâu sắc, sự can dự và cạnh tranh giữa các nước lớn vào khu vực ngày càng gay gắt, có nguy cơ gây chia rẽ, đối đầu trong khu vực, có nguy cơ phá vỡ các cơ chế, diễn đàn mà ASEAN đã tạo dựng và dẫn dắt, thách thức vai trò trung tâm của ASEAN.
Dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập của ASEAN là cơ hội để ASEAN nhìn lại chặng đường đã qua, khẳng định những giá trị, sức sốngmạnh mẽ và thành tựu to lớn đã đạt được; nhận thức rõ hơn, đồng thuận hơn về các cơ hội và thách thức to lớn đang đặt ra, cả từ bên trong và bên ngoài để không ngừng đổi mới, phát triển hơn nữa, đóng góp thiết thực hơn nữa cho hòa bình, ổn định và sự phát triển của khu vực và trên thế giới./.
TS. Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao